DANH MỤC SẢN PHẨM
Tin nổi bật
NanoBubble trên thế giới
Nghiên cứu khoa học
Hình ảnh
Tin Tức
Các câu hỏi về nước Hydrogen NanoBubble (phần 2)
Ngày đăng: 28.08.2019 14:47

 Tiếp theo những câu hỏi phần 1, Hydrogen NanoBubble tiếp tục ghi nhận những câu hỏi về Hydrogen NanoBubble.

e. Tôi đọc thấy rằng nếu thêm hydro vào nước, thì nó tạo ra hydro peroxide?

Nước có công thức hóa học H2O và hydro peroxide có công thức hóa học H2O2, bằng cách so sánh có chứa một oxy bổ sung, không phải hydro. Vì vậy, nó thực sự không thể, tạo thành hydro peroxide. Thực tế là, khí hydro không liên kết hoặc phản ứng với các phân tử nước, nó chỉ hòa tan vào nước. Nó không tạo ra một số phân tử mới như H4O, mà trên thực tế sẽ không thể hình thành về mặt hóa học. Do đó, nước hydro và hydro peroxide là những chất hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa, hydro peroxide không thể được sử dụng để tạo ra khí H2 hoặc tạo ra nước giàu hydro. 

f. Vì khí hydro không hòa tan rất tốt trong nước, làm thế nào thậm chí có thể đủ để nó có lợi?

Đúng là hydro không tan trong nước  vì nó là một phân tử trung tính, không phân cực với  độ hòa tan  là 1,6 mg/L, tương đối thấp. Nhưng khi chúng ta coi rằng  hydro phân tử  là phân tử nhẹ nhất trong vũ trụ, chúng ta thực sự cần so sánh số lượng phân tử trái ngược với số gram. Ví dụ: nếu một phân tử đơn nặng 2 mg (không thể, nhưng được sử dụng làm ví dụ), thì chỉ cần một trong số các phân tử đó trong một lít nước sẽ cung cấp cho bạn 2 mg/L, nhưng sẽ chỉ có một phân tử. Để tham khảo,  vitamin C (176,2 g/mol) nặng gấp 88 lần so với khí hydro (2g/ mol). Do đó, nước hydro ở nồng độ 1,6 mg/L sẽ có nhiều để trị liệu hơn các phân tử có hơn 100 mg vitamin C, vì có tổng số phân tử trong 1,6 mg hydro so với 100 mg vitamin C. Tức là 0,8 mmole H2 so với khoảng 0,6 mmole vitamin C. Nhưng quan trọng hơn là hàng trăm nghiên cứu khoa học cho thấy rõ rằng những  nồng độ  hydro này có hiệu quả. 

i. Có nhiều hydro bằng lợi ích hơn?

Có lẽ không…. rõ ràng là có một lượng tối thiểu cần thiết để cung cấp bất kỳ lợi ích sức khỏe nào, có thể khác nhau tùy theo từng người. Điều quan trọng, có vẻ như bạn không thể nhận được quá nhiều hydro, vì nó không tích tụ trong hệ thống của bạn. Bạn chỉ cần thở ra.  

Trong nhiều trường hợp có tác dụng phụ thuộc vào liều rõ ràng, nghĩa là càng nhiều hydro thì hiệu quả càng tốt hoặc lớn hơn. Cũng có nhiều báo cáo khoa học cho thấy rằng tiêu thụ nhiều hydro hơn có thể mang lại nhiều lợi ích hơn nữa. Nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn trong lĩnh vực này.

j. Hydro có an toàn không?

Vâng. Khí hydro đã được chứng minh là rất an toàn ở nồng độ cao hơn hàng trăm lần so với những gì đang được sử dụng để trị liệu. Dưới đây là một vài ví dụ: Sự an toàn của hydro được thể hiện lần đầu tiên vào cuối những năm 1800, nơi khí hydro được sử dụng để xác định vị trí các vết thương do đạn bắn vào ruột. Các báo cáo cho thấy rằng không bao giờ có bất kỳ tác dụng độc hại hoặc kích ứng nào đối với ngay cả các mô nhạy cảm nhất. Một ví dụ điển hình khác về sự an toàn của nó là khí hydro đã được sử dụng trong lặn biển sâu từ năm 1943 (ở nồng độ rất cao) để ngăn ngừa bệnh suy giảm. Các nghiên cứu cho thấy không có tác dụng độc hại từ hydro khi ở mức rất cao và áp suất 98,87% H2  và 1,26% O2 ở 19,1 atm. Hơn nữa, khí hydro là tự nhiên đối với cơ thể vì sau bữa ăn giàu chất xơ, vi khuẩn đường ruột của chúng ta có thể sản xuất hàng lít hydro hàng ngày (đó là một lợi ích khác từ việc ăn trái cây và rau quả). Nói tóm lại, khí hydro rất tự nhiên đối với cơ thể chúng ta, không giống như một chất lạ hay chất lạ chỉ có thể được tổng hợp trong phòng thí nghiệm hóa học

k. Khi nào lợi ích trị liệu của hydro được phát hiện lần đầu tiên?

Điều khoản nghiên cứu xác lập đầu tiên của khí hydro có đặc tính dược liệu là vào năm 1798, cho những thứ như viêm.  

Nhưng, nó đã không trở thành một chủ đề phổ biến của các nhà khoa học cho đến năm 2007, khi một bài viết về lợi ích của hydro được đăng trên tạp chí uy tín của Y học Tự nhiên bởi nhóm  Tiến sĩ Ohta Hồi.

l. Tôi nghe nói rằng uống nước kiềm có thể trung hòa axit dư thừa.

Nước kiềm không phải là chất đệm và có độ kiềm thấp. Như vậy, nó không thể trung hòa rất nhiều axit. Nhiều người đã thấy rằng chỉ cần một lượng nhỏ soda có thể dễ dàng hạ thấp độ pH  của một gallon nước kiềm. Để giúp đưa vấn đề này vào bối cảnh, hãy xem xét rằng 1 muỗng baking soda (sodium bicarbonate) có thể trung hòa lượng axit tương đương với 10.000 lít nước kiềm ở độ pH10. Đây là lý do chính khiến các chuyên gia y tế  nghi ngờ về điều này nước ion kiềm kiềm . Đơn giản là người ta không biết rằng lợi ích của nước này được quy cho khí hydro hòa tan cho đến khoảng năm 2007.

m.Tôi nghe nói rằng mỗi người bệnh là một pH máu axit axit. Điều này có đúng không?

PH  máu khỏe mạnh  dao động trong khoảng 7,35 đến 7,45. PH máu được điều hòa chặt chẽ. Trong sinh lý học, nếu ai đó có pH máu là 7.1 thì họ được cho là bị nhiễm axit mặc dù 7.1 thực sự có tính kiềm theo thang độ pH. Rất hiếm khi người ta có được máu axit thực sự (pH <7,0). Nếu pH máu giảm xuống dưới 7, cơ thể sẽ không tồn tại được lâu. Do đó, hầu như mọi người bệnh thực sự có pH máu kiềm mặc dù một số người có thể bị nhiễm axit. Tương tự, một số bệnh thực sự có thể gây nhiễm kiềm (tăng pH máu). Đó là căn bệnh gây ra những thay đổi về pH máu, trái ngược với những thay đổi về pH máu gây ra bệnh.  

Tất nhiên, độ pH trong máu thấp có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho cơ thể và cần nhanh chóng được khắc phục.

n. Làm thế nào để máu duy trì độ pH kiềm?

Ba hệ thống chính mà cơ thể sử dụng để duy trì nồng độ pH trong máu bình thường là:

o Thành phần đệm (ví dụ: protein, phốt phát, v.v.)

o Hệ hô hấp (loại bỏ CO 2)

o Hệ thống thận (bài tiết hoặc tái hấp thu bicarbonate HCO3-)

Khi axit được cơ thể đưa vào hoặc sản xuất, nó sẽ nhanh chóng được trung hòa bởi các thành phần đệm của máu. Bộ đệm quan trọng nhất là cơ chế bicarbonate/axit carbonic. Carbon dioxide (CO2) hòa tan trong máu tạo thành axit carbonic (H2CO3), sau đó tạo thành bicarbonate (HCO3-,đệm kiềm) và ion hydro (H+). Đây là theo phương trình CO2 + H2O->H2CO3-> HCO3-+H+  Điều này làm cho mọi thứ rất đơn giản, bởi vì nếu pH máu quá thấp (quá nhiều H+ các ion), sau đó chúng ta chỉ cần thở ra nhiều CO2 hơn qua phổi. Việc loại bỏ CO2 làm cho phương trình trên dịch chuyển sang trái, làm giảm lượng ion H+, làm tăng pH máu. Đây là lý do tại sao tăng thông khí (thở nhanh) có thể dẫn đến nhiễm kiềm (pH máu cao) do loại bỏ quá nhiều CO 2 . Ngoài ra, việc nín thở có thể dẫn đến độ pH thấp hơn vì có nhiều CO2  hòa tan trong máu, làm dịch chuyển phương trình sang phải dẫn đến nhiều  ion H+ hơn. CO 2  đơn giản là sản phẩm phụ thông thường của quá trình trao đổi chất. Trên thực tế, hầu như tất cả thực phẩm chúng ta ăn đều bị phân hủy thành CO2.  

 Điều quan trọng, kích thích chính cho hơi thở không phải là nhu cầu oxy, mà là cần phải loại bỏ CO2 để nồng độ ion H+ không tăng và làm giảm pH máu. Nói chung, trong điều kiện thư giãn, có đủ oxy trong một hơi thở để duy trì cơ thể trong khoảng 1 phút, nhưng chúng ta thở khoảng 12 lần mỗi phút để loại bỏ CO2. Những người khỏe mạnh chỉ sử dụng khoảng 5% lượng oxy hít vào mỗi hơi thở. Những người mắc bệnh phổi thường cần thêm oxy vì họ không thể hít đủ. Không thể hít vào và thở ra cũng có thể dẫn đến thay đổi pH máu do không thể loại bỏ CO2, có thể dẫn đến nhiễm toan hô hấp.